Thứ Tư, 11 tháng 11, 2009

Carl Becker – Triết học sử quan của Marx (1)

30/10/2009 | 1:10 sáng | 1 phản hồi

Tác giả: Cao Hùng Lynh

Chuyên mục: Tư tưởng
Thẻ: Carl Becker > Karl Marx > Triết học sử quan

Cao Hùng Lynh dịch

Carl Becker (1873 – 1945) là sử gia Hoa Kỳ, sinh tại Iowa, theo học Đại học Wiscosin-Madison, và lấy bằng Tiến sĩ vào năm 1907. Từ năm 1917 đến 1944, ông là giáo sư sử học tại Đại học Cornell. Ngoài các tác phẩm nổi tiếng như The Declaration of Independence (1922), Progress and Power (1949), and The Heavenly City of the Eighteenth-Century Philosophers (tái bản lần thứ 11 năm 1955), ông còn được nhiều người biết đến qua bài diễn văn “Everyman His Own Historian” năm 1931 tại Hội nghị Minneapolis của Hội Sử học Hoa Kỳ (AHA), khi ông làm chủ tịch hội này. Bài diễn văn, sau đó, được nhà xuất bản F. S. Crofts & Company, Inc., vào năm 1935, in thành sách cùng với nhiều tiểu luận khác dưới nhan đề Every Man His Own Historian: Essays on History and Politics. Michael W. Alssid và William Kenney đã đưa một trích đoạn của tác phẩm nói trên vào cuốn The World of Ideas: Essays for Study (Holt, Rinehart and Winston, Inc. xuất bản năm 1964), trong đó Carl Becker, dưới hình thức một bài thoại luận, đã phản bác triết học sử quan của Karl Marx. Xin giới thiệu đến độc giả Talawas Blog bản dịch Việt ngữ trích đoạn nói trên.

Người dịch

_____________

Tôi thường thảo luận về chủ nghĩa cộng sản với những người tin tưởng vào chủ nghĩa ấy; và cũng không phải là hiếm, tôi nhận được những lý lẽ từ phía họ rằng tôi, với tư cách là một kẻ có ít nhiều hiểu biết về lịch sử, hoặc phải (1) phản bác triết học sử quan Mác-xít, hoặc phải (2) nhiệt thành ủng hộ chánh nghĩa cộng sản. Trong các cuộc thảo luận với những lý lẽ như thế, tôi luôn luôn giữ vững quan niệm rằng (1) một kẻ hiểu biết chỉ có thể coi triết học sử quan Mác-xít như là một sự diễn dịch sáng sủa về quá khứ mà không cần phải tán dương nó như là một quy luật lịch sử, và (2) ngay cả khi được thuyết

Carl Becker (1873 - 1945)
Carl Becker (1873 – 1945)

phục rằng học thuyết Mác-xít là một quy luật lịch sử có giá trị, người ta vẫn có thể, với nhiều lý do chính đáng, từ chối ủng hộ chánh nghĩa cộng sản. Để tiện theo dõi, những cuộc thảo luận như thế, khi được khai triển và trình bày đầy đủ và trang trọng hơn, sẽ được thể hiện dưới hình thức thoại luận giữa một bên là người Cộng sản và một bên là người Tự do.

Người Cộng sản: thưa giáo sư, ông không nghĩ lịch sử đã chứng tỏ rằng sự phát triển xã hội – hoặc sự biến chuyển xã hội, nếu ông thích gọi như thế hơn – là kết quả của một cuộc xung đột giai cấp không thể tránh khỏi sao?

Người Tự do: Nói một cách chính xác, thì không. Tôi không thấy lịch sử minh chứng bất cứ cái gì, ngoại trừ việc cho thấy cái xảy ra đã xảy ra, hoặc không có cái gì không thể tránh khỏi, ngoại trừ cái đã xảy ra; nhưng cái đã xảy ra thực sự lại là một vấn đề luôn luôn đang nằm trong tình trạng tranh cãi. Khi dùng những từ “chứng tỏ” và “không thể tránh khỏi,” ông đang – như các nhà logic học thường nói – lấy một giả định để làm luận cứ giảo biện (beg the question).

Người Cộng sản: Tôi không nhất thiết phải dùng những từ như thế.

Người Tự do: Vậy thì được. Do đó, tôi đồng ý rằng, nói một cách tổng quát, lịch sử đã củng cố, hoặc có thể được tạo ra để củng cố, học thuyết Mác-xít. Chẳng hạn, vào thời trung cổ, nguồn gốc chủ yếu của sự thịnh vượng chắc chắn là đất đai; và rõ ràng vào thời điểm đó, giới quý tộc sở hữu ruộng đất chính là giai cấp thống trị. Chẳng khó khăn gì để chứng minh rằng phong tục tập quán và các quan niệm chánh trị, xã hội và tôn giáo của thời đó phù hợp với việc duy trì uy thế kinh tế và chánh trị của tầng lớp quý tộc. Tương tự, trong suốt ba thế kỷ qua, đất đai đã dần dần bị thay thế bằng tư bản trong vai trò là nguồn gốc chủ yếu của sự thịnh vượng; và lịch sử của giai đoạn này dễ dàng được coi như là lịch sử của cuộc xung đột giữa các nhà tư bản trung lưu với tầng lớp quý tộc sở hữu đất đai; kết quả là cái trước đã thay thế cái sau để trở thành giai cấp thống trị, đồng thời, vì quyền lợi của nó, đã đưa ra một hệ thống các định chế và quan niệm mới (chánh thể đại nghị, tự do cá nhân, chủ quyền của nhân dân, tự do cạnh tranh) để thay thế cho cái cũ. Vâng, khi giải thích lịch sử một ngàn năm vừa qua của Âu châu, học thuyết Mác-xít là một học thuyết đã làm điều này một cách sáng tỏ nhất.

Người Cộng sản: Chỉ sáng tỏ thôi ư? Ông có thể phủ nhận việc nó là một sự giải thích thuyết phục và thực tiễn hơn bất cứ một học thuyết nào khác không?

Người Tự do: Tôi có thể dễ dàng phủ nhận điều đó, nhưng tôi không muốn làm như vậy. Chúng ta hãy thừa nhận rằng nó là một sự giải thích thuyết phục nhất. Chẳng những thế, vì các mục đích của cuộc tranh luận này, tôi sẽ chấp thuận rằng nó là một sự giải thích duy nhất có giá trị.

Người Cộng sản: Vậy thì tốt quá. Nếu ông thừa nhận rằng Marx đã giải thích quá khứ một cách chính xác, tại sao lại không thừa nhận ông ta cũng chính xác khi lý giải tương lai? Tại sao không thừa nhận rằng một khi giai cấp tư sản đã thay thế giai cấp quý tộc chủ đất để trở thành giai cấp thống trị, thì giai cấp vô sản, tới phiên nó, cũng sẽ thay thế giai cấp tư sản? Và nếu như thế, lẽ nào lại không hữu lý khi cho rằng các quan niệm tiêu biểu của xã hội hiện tại (chính thể đại nghị, tự do phát biểu, tự do kinh doanh) sẽ nhường chỗ cho những quan niệm khác phù hợp với quyền lợi của giai cấp vô sản?

Người Tự do: Sở dĩ tôi chấp nhận cách giải thích quá khứ của Marx là vì tôi biết điều gì đã xảy ra và tôi có thể kiểm tra nó. Còn khi tôi do dự trong việc chấp nhận sự lý giải của ông ta về tương lai, một phần là vì tôi không biết một cách đích xác điều gì sẽ xảy ra, và phần khác là vì ngay cả có biết đích xác điều sẽ xảy ra đi chăng nữa, tôi cũng không có cách nào kiểm tra điều đó. Tôi sẵn lòng thừa nhận rằng tương lai sẽ, trong một cách thức nào đó có thể được hợp lý hóa theo biến cố vừa nói, có nhiều điểm tương đồng với quá khứ. Cố nhiên, thay đổi là quy luật của cuộc sống, và rõ ràng là các định chế và quan niệm của thế kỷ mười chín, những thứ rất phù hợp với quyền lợi của giai cấp tư sản, sẽ không đáp ứng, nếu không có sự biến cải nào đó, các nhu cầu của xã hội cơ giới phức tạp của thế kỷ hai mươi. Tôi cũng sẵn sàng thừa nhận rằng các định chế và quan niệm của thời đại hiện nay sẽ bị đổi thay sao cho thích hợp nhiều hơn nữa với những quyền lợi kinh tế của người công nhân, của đa số dân chúng, của giai cấp vô sản. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng sự đổi thay vừa kể sẽ xảy ra theo cách mà Marx tiên đoán, hoặc không có nghĩa rằng thành quả của sự đổi thay sẽ là một loại xã hội không tưởng đúng với sự tiên liệu của ông ta.

Người Cộng sản: Xã hội không tưởng! Tôi không hề thấy Marx tiên liệu một xã hội không tưởng nào cả.

Người Tự do: À, vậy thì chúng ta đồng ý rằng ông ta không làm điều đó. Thế thì ông ta đã tiên liệu cái gì?

Người Cộng sản: Ông ta tiên liệu rằng chế độ tư bản, theo bản chất của nó, sẽ tự diệt vong. Bản chất của chế độ tư bản là cạnh tranh không khoan nhượng; do đó, trong bất cứ xã hội kỹ nghệ nào, tài sản luôn luôn có khuynh hướng tập trung cao độ vào bàn tay của một thiểu số, trong khi đa số quần chúng dần dần sẽ bị rơi vào tình trạng của những kẻ nô lệ ăn lương. Khi tiến trình này vươn tới một điểm giới hạn nào đó, toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ như nó hiện đang sụp đổ, bởi vì nó đã tước đoạt phương tiện mua sắm hàng hóa của người dân. Mục tiêu duy nhất của giai cấp tư sản là sản xuất và buôn bán vì lợi nhuận. Khi hệ thống tư bản ngưng hoạt động, nhân dân sẽ, một cách tất yếu, nắm quyền kiểm soát, và vì quyền lợi của chính mình, họ sẽ thiết lập một xã hội không còn giai cấp được đặt nền tảng trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất và sự phân phối sản phẩm công bằng hơn. Đây chính là cuộc cách mạng xã hội mà Marx đã tiên đoán, và nó đã bắt đầu ở Nga.

Người Tự do: Ở Nga, vâng. Ở Nga, có nghĩa là không phải ở xã hội đã được kỹ nghệ hóa cao nhất, mà ở một xã hội đã được kỹ nghệ hóa kém nhất. Đây chắc chắn không phải là điều Marx nói.

Người Cộng sản: Không, không phải. Nhưng ông không thể khăng khăng rằng vì tiên đoán của Marx không đúng ở khía cạnh chi tiết, cho nên nó không có giá trị trong đường nét tổng quát của nó. Cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất đã tạo ra một loạt những hoàn cảnh đặc biệt vô cùng thuận lợi cho cuộc cách mạng xã hội ở Nga.

Người Tự do: Rất đúng. Cuộc cách mạng xã hội ấy rõ ràng đã xảy ra ở Nga. Thượng đế, hoặc Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng, hoặc bất cứ cái gì làm nên những biến chuyển xã hội, lẽ cố nhiên, đã thực hiện một hành động hết sức kỳ quặc khi đưa cuộc cách mạng xã hội ấy đến nước Nga, trước khi đưa nó đến các quốc gia kỹ nghệ hóa cao hơn như Anh quốc, chẳng hạn. Về phần mình, tôi không nghĩ cuộc cách mạng Nga đã làm được điều gì để chứng thực cho các điều tiên đoán của Marx; đối với tôi, nó chỉ cho thấy rằng ở một đất nước mà trong đó người dân đã quen với việc bị cai trị bởi một chánh phủ độc tài – một đất nước mà nền độc tài đã bị mục rữa và kém cỏi – thì rất dễ thiết lập một nền độc tài theo một hình thức khác. Nhưng thôi, hãy bỏ qua điều này. Sự không sẵn lòng chấp nhận học thuyết Marx của tôi xuất phát từ một yếu tố căn bản hơn nhiều so với biến cố xảy ra ở Nga. Có hai vấn đề khó khăn mà tôi luôn luôn gặp phải. Có lẽ ông sẽ giải quyết chúng giùm tôi. Thứ nhất, vô cùng gian khó trong việc tiên đoán tương lai dựa trên kinh nghiệm quá khứ; hay đúng hơn là rất dễ tìm thấy trong quá khứ những luận cứ củng cố cho các loại tiên đoán về tương lai. Vấn đề khó khăn thứ hai là việc hiểu được lý do tại sao một sự xung đột giai cấp dai dẳng có tính chất kinh tế lại có thể biện minh cho chúng ta trong việc tiên đoán về một xã hội phi giai cấp trong tương lai.

Đối với vấn đề khó khăn thứ nhất, sự hiểu biết ít ỏi của tôi về lịch sử khiến tôi trở nên thận trọng trong bất cứ tiên đoán nào liên quan đến cái hình thái mà các định chế xã hội tạo ra trong tương lai; đặc biệt khi các tiên đoán như thế, những tiên đoán dựa trên một quan điểm thực dụng về quá khứ, lại chấp nhận một quan điểm lý tưởng về tương lai. Trong suốt hai ngàn năm qua, tất cả các vị thánh và các nhà hiền triến trên thế giới này, khi phàn nàn về sự bất hòa và tham lam, về sự nghèo đói và bất công của con người, đều đã trông đợi cái thời điểm mà một xã hội công bằng hơn được thiết lập. Nhiều lần họ đã tiên đoán về sự xuất hiện của một xã hội phi giai cấp, trong đó mọi người đều no đủ; nhưng hàng loạt các biến cố xảy ra đã không bao giờ chứng thực cho những ước vọng của họ. Suy luận khái quát hóa dựa trên sự kiện lịch sử này cũng vững chắc như suy luận khái quát hóa của Marx, và nó còn có những căn cứ rộng rãi hơn nhiều so với Marx. Và nếu phán định tương lai bằng quá khứ, tôi sẽ không tìm thấy lý do chính đáng nào khiến tôi phải từ bỏ suy luận khát quát hóa của tôi để nghe theo cái mà Marx đưa ra. Suy luận của Marx, do đó, dường như đã bác bỏ chính điều tiên đoán của Marx, khi mà ông lý giải quá khứ, rồi dùng đó để phóng chiếu vào tương lai.

Người Cộng sản: Tôi chưa hiểu điều này.

Người Tự do: Có lẽ nó sẽ trở nên rõ ràng nếu tôi nói thêm về vấn đề khó khăn thứ hai mà tôi đã đề cập trước đó. Sự giải thích quá khứ của Marx có tính chất sáng sủa và thực tế; trong khi đó, sự tiên đoán của ông ta về tương lai lại mù mờ và có tính chất lý tưởng. Tôi đã gọi điều đó là không tưởng, nhưng ông lại phản đối từ này. Vậy tôi sẽ không dùng từ ấy nữa. Thậm chí, tôi cũng sẽ từ bỏ cả từ “lý tưởng.” Nhưng vấn đề là như vầy: Marx nhận thấy rằng trong quá khứ, động lực hữu hiệu đã định đoạt sự thay đổi xã hội chính là sự xung đột giai cấp có tính chất kinh tế. Marx chỉ ra rằng xung đột này đã giải thích sự xuất hiện của xã hội tư bản hiện nay. Rất đúng. Vậy nếu như tôi dùng sự lý giải này để tiên đoán các biến chuyển xã hội trong tương lai, thì nó sẽ nói cho tôi biết điều gì? Câu trả lời dường như là trong tương lai sẽ có cái mà đã từng hiện hữu trong quá khứ – một cuộc xung đột giai cấp bất tận, một sự thay thế bất tận giai cấp cai trị này bằng giai cấp cai trị khác, một sự cải biến bất tận các định chế và quan niệm phù hợp với các biến động xã hội do xung đột giai cấp tạo ra. Nhưng đây không phải là cái mà Marx tiên đoán. Cái ông ta tiên đoán là sự cáo chung của xung đột giai cấp, sự thiết lập một xã hội phi giai cấp. Cái mà ông và ông ta đang đòi hỏi tôi phải chấp thuận là một sự giải thích lịch sử mà sẽ chỉ có thể biện giải nó (lịch sử) đến một mức độ nào đó. Marx đã phê phán Hegel về nhược điểm này. Hegel giải thích lịch sử quá khứ như là một sự chuyển biến chịu tác động bởi Tư tưởng Siêu nghiệm (Transcendent Idea) khi nó tự ý thức về chính nó trong các biến cố thực tế của lịch sử; theo Hegel, mục tiêu quan trọng của lịch sử là sự nhận thức hoàn toàn về Tư tưởng qua hình thức Tự do, và mục tiêu quan trọng này, trong ý nghĩa nào đó, đã từng đạt được ở nước Phổ. Marx muốn biết điều mà Tư tưởng Siêu nghiệm có thể tìm ra để thực hiện trong tương lai, vì nó đã được nhận thức hoàn toàn. Đó là một phê phán xác đáng. Giờ thì vấn đề khó khăn của tôi là muốn biết Marx đã hoàn thiện Hegel như thế nào. Chắc chắn Marx không nói rằng mục tiêu quan trọng của lịch sử đã đạt được. Ông ta nói xung đột giai cấp về kinh tế sẽ làm nảy sinh một cuộc cách mạng xã hội. Nhưng sau cuộc cách mạng xã hội đó, sẽ là cái gì? Cái gì sẽ xảy đến cho sự xung đột giai cấp về kinh tế, sau khi cuộc cách mạng nói trên đã thiết lập một xã hội phi giai cấp? Tôi thấy chẳng có gì khác hơn Tư tưởng Siêu nghiệm của Hegel. Một quy luật lịch sử — cái mà tại một thời điểm quyết định nào đó không còn lý giải lịch sử — một quy luật lịch sử — cái mà được đòi hỏi, tại một khoảng khắc thích hợp nào đó, phải mổ bụng tự sát ngay tại ngưỡng cửa của lý tưởng – chắc chắn sẽ bỏ lại một điều gì đó cho người ta khát khao.

Người Cộng sản: À, đó là một quan niệm. Nhưng thưa giáo sư, ông thực sự biết rõ rằng mục tiêu này đã từng được chú ý trước đây, và hiện có một giải pháp tốt đẹp cho nó. Marx không mù đến nổi không nhìn thấy nó. Làm sao có thể như vậy được, khi ông đã chỉ ra chính cái điểm yếu đó trong triết học sử quan của Hegel.

Người Tự do: Tôi sẽ rất sung sướng nếu biết được Marx đã tránh điểm khó khăn đó như thế nào.

Người Cộng sản: Tôi chắc rằng Marx đã hoàn toàn tránh được điểm này. Nhưng giáo sư phải để cho các môn đồ của Marx diễn giải chi tiết triết học Marx dưới ánh sáng kinh nghiệm sau đó của họ. Ông không phản đối chứ?

Người Tự do: Hoàn toàn không. Chúng ta cần phải thảo luận về chủ nghĩa Marx một cách rốt ráo và bằng mọi phương cách có thể có, khi mà hiện nay nó đang được diễn dịch bởi các nhà phê phán chuyên nghiệp nhất.

Người Cộng sản: Rất tốt. Theo một người giải thích chủ nghĩa Marx gần đây, lịch sử có thể lý giải bằng biện chứng pháp về sự biến đổi, theo đó các mâu thuẫn chỉ có thể được giải quyết trong một hợp đề (synthesis) cao hơn. Mâu thuẫn này không nhất thiết phải là mâu thuẫn giai cấp về kinh tế. Sau khi xã hội phi giai cấp được thiết lập, sự mâu thuẫn vẫn hiện hữu, nhưng ở một mức độ khác. Theo giáo sư Sidney Hook, một nhà lý giải Marx, biện chứng pháp trong một xã hội cộng sản phi giai cấp sẽ không, “về phương diện lịch sử, bị điều kiện hóa trong cùng một ý nghĩa” giống như trong các thời đại trước đó. “Nó sẽ tìm được cách thể hiện trên một bình diện cao hơn. Mặc dầu không ai có thể nói trước các hình thái cụ thể mà nó sẽ biểu hiện, nhưng rõ ràng là địa hạt tác động của nó sẽ có tính cách cá nhân.” Nói cách khác, khi đã giải quyết vấn đề kinh tế bằng cách thiết lập một xã hội phi giai cấp, con người sẽ bị chi phối bằng các vấn đề tinh thần cao hơn về sự phát triển của chính mình.

Người Tự do: Tôi phải thú nhận rằng đây là điều khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Ít phút trước đây, ông không cho phép tôi dùng thuật ngữ “không tưởng” để chỉ xã hội tương lai mà Marx đã tiên đoán; vậy mà giờ đây, đối với tôi, điều ông vừa nói xem ra lại rất giống với tất cả các xã hội không tưởng mà tôi từng nghe nói đến. Trong suốt chiều dài của quá khứ, con người luôn luôn dính vào những xung đột bạo tàn để giành lấy các lợi ích vật chất; nhưng rồi sự xung đột bạo tàn này, bằng cách nào đó, sẽ mang lại một xã hội phi giai cấp, trong đó con người đột nhiên thay đổi bản chất của mình để hiến thân cho những điều cao cả của cuộc đời. Thuyết duy vật biện chứng sẽ bị thay thế bằng cái mà chúng ta có thể gọi là thuyết duy linh biện chứng, hoặc nói bằng một ngôn ngữ dễ hiểu, mọi mâu thuẫn sẽ chấm dứt trên bình diện kinh tế, để tiếp tục diễn ra trên bình diện tinh thần.

Có thể nói như vầy: nếu nó xảy ra như thế, thì nó thật là tuyệt diệu. Tôi chỉ muốn nói rõ rằng đây chính là điều mọi nhà tiên tri duy tâm trên thế giới không ngừng mong mỏi xảy ra. Đây chính là điều các nhà tiên tri thuở ban đầu của nền dân chủ đã tiên đoán. Đây cũng chính là điều tất cả những người theo trường phái tự do nhân văn hằng ước vọng. Nhưng cái tôi không thể hiểu là làm cách nào triết học Marx có thể khiến chúng tôi hy vọng vào điều đó. Tôi nghĩ rằng nguyên lý căn bản của triết học Marx là phẩm hạnh con người luôn luôn bị điều kiện hóa một cách khắt khe; và nếu phẩm hạnh của họ, trong quá khứ, đã bị điều kiện hóa bởi mâu thuẫn giai cấp về kinh tế, thì tại sao nó lại không bị điều kiện hóa như thế trong tương lai?

Người Cộng sản: Vấn đề khó khăn của ông này sinh từ một giả định sai lầm – một giả định do nhiều nhà phê bình có thái độ thù địch với Marx tạo ra. Giả định đó nói rằng Marx chấp nhận thuyết tất định máy móc (mechanistic determinism) của thế kỷ mười chín. Sự thật không phải như vậy. Marx luôn luôn nói rằng “con người làm nên lịch sử của chính mình.” Anh ta mang cái mới lạ vào các điều kiện định đoạt hành vi của chính anh ta. Marx nói rõ: “Bằng cách tác động đến ngoại giới, con người đã làm thay đổi bản chất của mình.” Điều này có nghĩa là con người có khả năng, thông qua sự hiểu biết, cải tạo hoàn cảnh sống của anh ta, và do đó sẽ làm giảm bớt sự lệ thuộc vào hoàn cảnh sống ấy. Vì thế, hoàn toàn có khả năng là con người, trong một thời gian rất dài, sẽ lệ thuộc một cách mù quáng vào tầm chi phối của mâu thuẫn giai cấp về kinh tế — một thời gian rất dài, nhưng không nhất thiết phải là mãi mãi; do đó, sau khi đã ý thức được rằng trong quá khứ, mình đã tùy thuộc vào sự mâu thuẫn giai cấp về kinh tế, con người sẽ, trong tương lai, không còn lệ thuộc vào điều đó, ngay cả khi anh ta đã từng lệ thuộc vào nó. Việc ý thức rằng hành vi của anh ta bị định đoạt bởi mâu thuẫn giai cấp về kinh tế sẽ trở thành một yếu tố mới trong các điều kiện định đoạt hành vi của anh ta, và vì thế sẽ làm thay đổi các điều kiện sẽ định đoạt hành vi của anh ta trong tương lai. Có thể nói rằng mục đích cao cả của Marx nằm ở điều sau đây: làm cho con người ý thức được những điều kiện đã tạo nên các cuộc cách mạng xã hội trong quá khứ, để cho trong cuộc cách mạng xã hội sắp tới, anh ta có thể điêu khiển nó một cách có ý thức, khi ý thức được những gì đang diễn ra. Một lần nữa, xin trích dẫn giáo sư Sidney Hook: “Một khi con người kiểm soát được những điều kiện của đời sống xã hội, anh ta sẽ có thể, một cách có ý thức, làm thay đổi bản chất của mình bằng một ý chí tự do có tính cách tinh thần, trái ngược với con người trong quá khứ, những kẻ mà bản chất của họ bị thay đổi một cách vô thức bởi ý chí được định đoạt bằng các yếu tố kinh tế của các giai cấp kinh tế.”

Người Tự do: Tôi biết; ít nhất là tôi cũng nghĩ như vậy, bất chấp cách nói có tính cách học thuật khá mơ hồ của giáo sư Hook. Nhưng tôi cho rằng điều mà nó sẽ đi đến là như vầy. Trong thế giới vật chất, một quy luật nào đó luôn luôn có tác dụng mãi mãi, bởi vì vật thể không ý thức được, đồng thời chẳng màng đến, điều gì đang diễn ra. Một quả bi-da (xin được dùng một thí dụ cổ điển) không hề muốn thay đổi bản chất của nó. Nhưng con người thì lại luôn luôn ý thức được, đồng thời không hề không màng đến, điều gì đang diễn ra. Hành vi của anh ta hoàn toàn bị điều kiện hóa, nhưng khi anh ta trở nên biết được cái gì đang điều kiện hóa hành vi của mình, lập tức sự nhận thức của anh ta sẽ giúp anh ta có những phản ứng khác đi; hành vi của anh ta, lúc đó, không hề bị điều kiện hóa ít hơn trước đây, nhưng sự nhận thức của chính anh ta đã trở thành một yếu tố mới làm phức tạp và thay đổi các điều kiện ấy. Trong một thời gian dài, con người có thể tôn thờ mặt trời; khi họ nhận thức được các tác động khiến anh ta phải thờ phụng mặt trời, thì sự nhận thức này có thể sẽ trở thành một tác lực làm cho anh ta ngưng thờ phụng mặt trời. Sự tự do của ý chí, như Engels nói, không là điều gì khác hơn việc con người biết rằng hành vi của anh ta bị điều kiện hóa.

Marx đã áp dụng rất tốt nguyên lý tự do này vào các biến động hoặc những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử. Các cuộc cách mạng xã hội trong quá khứ đã bị điều kiện hóa bởi sự mâu thuẫn giai cấp về kinh tế. Khi nào con người vẫn chưa ý thức được sự thật này, thì các cuộc cách mạng xã hội vẫn sẽ tiếp tục bị điều kiện hóa bởi mâu thuẫn giai cấp về kinh tế. Nhưng khi con người hoàn toàn ý thức được, thông qua sự khám phá vĩ đại của Marx, rằng các cuộc cách mạng xã hội trong quá khứ đều bị điều kiện hóa bởi mâu thuẫn giai cấp, thì sự ý thức này sẽ giúp anh ta phản ứng khác đi – phản ứng theo cách nào đó để xóa bỏ sự mâu thuẫn giai cấp. Tôi thừa nhận đây chính là cách ông giải thích Marx.

Người Cộng sản: Đúng vậy.

(còn tiếp 1 kỳ)

Nguồn: The World of Ideas: Essays for Study, Michael W. Alssid và William Kenney biên soạn, Holt, Rinehart and Winston, Inc. xuất bản, 1964.
Create PDF

ShareThis
Phản hồi

1 phản hồi (bài “Carl Becker – Triết học sử quan của Marx (1)”)

1.
Anh Dũng nói:
30/10/2009 lúc 7:46 sáng

Người tự do: “Thứ nhất, vô cùng gian khó trong việc tiên đoán tương lai dựa trên kinh nghiệm quá khứ; hay đúng hơn là rất dễ tìm thấy trong quá khứ những luận cứ củng cố cho các loại tiên đoán về tương lai. Vấn đề khó khăn thứ hai là việc hiểu được lý do tại sao một sự xung đột giai cấp dai dẳng có tính chất kinh tế lại có thể biện minh cho chúng ta trong việc tiên đoán về một xã hội phi giai cấp trong tương lai.”

“Trong suốt chiều dài của quá khứ, con người luôn luôn dính vào những xung đột bạo tàn để giành lấy các lợi ích vật chất;”

“Thuyết duy vật biện chứng sẽ bị thay thế bằng cái mà chúng ta có thể gọi là thuyết duy linh biện chứng, hoặc nói bằng một ngôn ngữ dễ hiểu, mọi mâu thuẫn sẽ chấm dứt trên bình diện kinh tế, để tiếp tục diễn ra trên bình diện tinh thần.”

“nếu phẩm hạnh của họ, trong quá khứ, đã bị điều kiện hóa bởi mâu thuẫn giai cấp về kinh tế, thì tại sao nó lại không bị điều kiện hóa như thế trong tương lai?”

1. K.Marx không “tiên đoán tương lai” mà ông ấy “đấu tranh” cho tương lai. Ông ấy đã nhiều lần nói rõ rằng nếu không đấu tranh thì CNCS chỉ là một ảo tưởng.

2. Vì ông Carl Becker đã chấp nhận giải thích của K.Marx về lịch sử nên ông không thể không biết rằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chế độ nguyên thủy của loài người (công xã nguyên thủy) chứ không phải là chế độ tư hữu.

3. Lý giải của K.Marx về công xã nguyên thủy đã bác bỏ hoàn toàn cái gọi là “trong suốt chiều dài lịch sử…” của ông Carl Becker.

4. Không có chuyện “duy linh biện chứng” thay thế cho “duy vật biện chứng”. Vì “vật chất” không đồng nghĩa với “kinh tế”, cho nên chấm dứt mâu thuẫn kinh tế không đồng nghĩa với chấm dứt mâu thuẫn trong thế giới vật chất nói chung. Con người vẫn nằm trong những mâu thuẫn vật chất với: khí hậu, giới tự nhiên, vũ trụ,…

Hãy nhìn các “loài” động vật khác, chúng đâu có “mâu thuẫn kinh tế” như con người, đâu có tư hữu tư liệu sản xuất như con người. Xã hội phi giai cấp chính là xã hội mà con người trở về với bản chất “loài” của mình trong khi sức sáng tạo, tái sản xuất ra bản thân và giới tự nhiên không thay đổi; trở về với nguồn cội “công hữu” của mình.

5. Vẫn vậy, ông Carl Becker đã thừa nhận lý giải của K.Marx về lịch sử nhưng lại không biết đến cái khởi đầu của K.Marx là “chế độ công hữu” (nguyên thủy).

Do đó, mâu thuẫn giai cấp về kinh tế không phải là sự “điều kiện hóa” suốt chiều dài lịch sử, mà nó chỉ là một sự “tha hóa” trong một giai đoạn lịch sử.

Công hữu (công xã nguyên thủy) => Tư hữu => Công hữu (CSCN)

Có người sẽ thắc mắc là sau chế độ công hữu (CSCN) sẽ có một chế độ tư hữu khác. Nhưng khi con người đã trải qua một giai đoạn tư hữu đầy những đau khổ rồi thì con người sẽ không còn muốn và sẽ biết cách không lặp lại sai lầm của “loài người” một lần nữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét